Thứ Hai, 13 tháng 3, 2017

Tính tất yếu về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Thực tiễn, từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ phát triển thấp, sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn mình thoát khỏi một nước kém phát triển, trở thành nước phát triển trung bình; tăng trưởng kinh tế liên tục tăng; chính trị - xã hội ổn định; chủ quyền, an ninh quốc gia được bảo vệ; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ ngày càng được mở rộng; quan hệ quốc tế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao...
 Về tăng trưởng kinh tế, trong suốt 30 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn hẳn thời kỳ trước đổi mới. GDP  bình quân tăng giai đoạn 2001-2005, GDP tăng bình quân 7,34%; giai đoạn 2006-2010, do suy giảm kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,32%/năm. GDP giai đoạn 2011-2015 của Việt Nam tuy đã chậm lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm. Năm 2016 GDP bình quân đầu người ước tính đạt 48,6 triệu đồng, tương đương 2.215 USD, tăng 106 USD so với năm 2015.
Về quy mô nền kinh tế năm 2016, Tính theo giá hiện hành quy mô nền kinh tế năm 2016  đạt 4.502,7 nghìn tỷ đồng. Qua 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã ba lần sửa đổi và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban hành trên 150 bộ luật và luật, trên 70 pháp lệnh., tư tưởng, đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được thể chế hóa thành pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế vận hành có hiệu quả.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đang tích cực được hoàn thiện, bộ máy quản lý nhà nước đã và đang được điều chỉnh theo hướng tinh giản, chức năng quản lý nhà nước về kinh tế cũng được nhận thức lại đúng đắn hơn. 30 năm đổi mới cho đến nay đã có 59 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam.
Về đối ngoại đến năm 2016, Việt Nam hiện đã xác định 3 đối tác chiến lược toàn diện, 12 đối tác chiến lược và 10 đối tác toàn diện; 3 mối qua hệ đặc biệt với  Lào, Campuchia và Cu ba, Việt Nam có quan hệ với 187 nước, hầu hết các tổ chức quốc tế, một số quốc gia khác thuộc tất cả các châu lục và có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn, các nước Ủy viên thường trực của Hội  đồng Bảo an Liên hợp quốc. Việt Nam hiện có quan hệ ngoại giao với 2 quốc gia được nhiều nước thừa nhận, nhưng thực tế không độc lập: Palestine và Tây Sahara
Đặc biệt, tư duy mới của Đảng về đối tác, đối tượng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng có bước phát triển cao hơn, đúng đắn linh hoạt hơn, rõ ràng nhưng cũng rất bám sát vào lợi ích cốt lõi của quốc gia, dân tộc,nhất là luôn gắn với chiến lược, kế sách xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội...
Xác định đúng đối tác, đối tượng là vấn đề quan trọng, căn cứ chủ yếu để đề ra chính sách đối nội, đối ngoại cùng với kế sách xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là một quan điểm chỉ đạo của Đảng trong “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Đảng ta đã xác định “Vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng: Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”Bên cạnh đó, nhận thức về sự chuyển hóa giữa đối tượng, đối tác là một vấn đề nhạy cảm, phức tạp. Trong lịch sử, một số chính trị gia đã sớm rút ra kết luận: “không có đồng minh vĩnh viễn và kẻ thù truyền kiếp, chỉ có lợi ích dân tộc là lâu dài”.
Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng có ý nghĩa trọng đại trong sự nghiệp phát triển của Việt Nam, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân; là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội  vì  mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”...
Tuy nhiên, các thế lực thù địch đã và đang liên tục chống phá cách mạng nước ta hết sức tinh vi và quyết liệt. Mũi nhọn thâm độc nhất là tiến công vào nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đồng thời phủ định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chế độ XHCN và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam… Cùng với đó, các phần tử cơ hội về chính trị và chống đối đã thành lập các tổ chức, nhóm, hội bí mật phát tán các tài liệu bất hợp pháp, tung tin đồn nhảm, xuyên tạc tình hình, truyền bá những quan điểm sai trái chống đối Đảng, chính quyền các cấp; xuyên tạc sự thật, nói xấu lãnh tụ, bôi nhọ danh nhân và anh hùng dân tộc. Họ đòi Đảng từ bỏ quyền lãnh đạo, đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; bác bỏ con đường XHCN, đòi đa nguyên, đa đảng...
Theo thống kê, hiện nay ở bên ngoài có tới hơn 50 đài phát thanh và truyền hình có chương trình Việt ngữ, trang mạng in-tơ-nét, hàng trăm tờ báo, tạp chí, hơn 40 nhà xuất bản, hơn 3.000 tài liệu chiến tranh tâm lý phá hoại tư tưởng, hàng chục nghìn thư ân xá quốc tế xâm nhập… tập trung tuyên truyền chống phá ta. Một số đối tượng cơ hội chính trị, phần tử bất mãn, cực đoan, quá khích đang sống, làm việc thụ hưởng thành quả cách mạng do Đảng và nhân dân mang lại, nhưng lại lén lút cộng tác với những phần tử bất mãn, phản động nước ngoài để mưu cầu lợi ích cá nhân, bằng việc tiếp nhận, tán phát tài liệu có nội dung xấu, nói xấu chế độ, chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam...
Những năm gần đây, các thế lực thù địch thường xuyên xuyên tạc chính sách về tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta, phủ nhận thành tựu công cuộc đổi mới, lợi dụng yếu kém để vu cáo chính quyền... kích động những người dân thiếu hiểu biết, dân tộc thiểu số vào các mục đích sai trái, âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thực tế cho thấy, một nguyên nhân không nhỏ dẫn đến tình trạng đó còn là do sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… một bộ phận cán bộ, đảng viên; sự thiếu tu dưỡng, học tập, rèn luyện hoặc tôn sùng lối sống thực dụng, thích hưởng thụ, thu vén cá nhân hơn là cống hiến...
Có thể nói con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhất là sau 30 năm đổi mới càng khẳng định tính đúng đắn, lựa chọn sáng suốt, hợp quy luật, phù hợp với điều kiện lịch sử dân tộc và đã được kiểm chứng là duy nhất gắn kết được lợi ích của Dân tộc, của Đảng của nhân dân và được Đại hội XII về thể hiện tập trung ở những vấn đề và những điểm mới cơ bản sau:
Thứ nhất, Đại hội khẳng định tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
Phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự lựa chọn hợp quy luật, là xu thế phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại. Tính quy luật tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã được học thuyết Mác - Lênin luận giải một cách đầy đủ và khoa học. Mặt khác, hiện nay chủ nghĩa tư bản hiện đại đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nan giải như các khoản nợ công khổng lồ; đó còn là nạn khủng bố đang diễn biến vô cùng phức tạp, khó kiểm soát, đe dọa sự ổn định của thế giới, nhất là đối với các nước tư bản phát triển… Tất cả điều đó là những minh chứng cho thấy cách thức phát triển kiểu tư bản chủ nghĩa hiện nay đang chứa đựng nhiều nguy cơ bất ổn và không bền vững.
Thứ hai, xác định rõ phương châm “lấy lợi ích quốc gia - dân tộc làm mục tiêu cao nhất”
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là lập trường nhất quán của Đảng. Phân tích bối cảnh quốc tế mới, Đại hội XII chỉ rõ: Tình hình chính trị - an ninh thế giới đang có nhiều thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường; sự tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn ngày càng quyết liệt; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố... đang diễn ra gay gắt ở nhiều nơi; những diễn biến phức tạp tại Biển Đông đang làm ảnh hưởng đến lợi ích dân tộc và trực tiếp đe dọa an ninh và chủ quyền quốc gia - dân tộc... Một khi lợi ích quốc gia - dân tộc không được đảm bảo, bảo vệ thì lợi ích giai cấp và mục tiêu chủ nghĩa xã hội cũng không thể thực hiện được.
Đối với Việt Nam, để có độc lập dân tộc và phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa như ngày nay, toàn thể dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu và của Đảng đã phải trả bằng biết bao xương máu, tổn thất để giành và giữ lấy. Chính vì lẽ đó, Đại hội XII đã xác định rõ phương châm: “lấy lợi ích quốc gia - dân tộc làm mục tiêu cao nhất” và “phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết”. Đây là điểm mới của Đại hội XII, đồng thời là sự tiếp nối một cách sáng tạo tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh trong điều kiện mới.
Thứ ba, xác định rõ lộ trình công nghiệp hóa và mô hình phát triển kinh tế nhằm hướng tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam
Sau 30 năm, nền kinh tế nước ta đã có bước phát triển vượt bậc so với thời kỳ trước đổi mới. Tuy nhiên, đầu vào phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu; xuất khẩu thô, xuất khẩu dưới hình thức gia công còn lớn, tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường, nhất là trong nông thôn gia tăng… tỷ lệ người lao động trẻ tuổi mất việc làm đang là vấn đề lớn, bức xúc, cần phải giải quyết...
Điểm mới của Đại hội XII là phải đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của các ngành, lĩnh vực, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế…, đồng thời, tránh được nguy cơ tụt hậu và phát triển không bền vững, tiếp tục khẳng định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo đảm bảo Nhà nước có đủ tiềm lực kinh tế để điều tiết và định hướng nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời tạo động lực và môi trường, điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp.
 Quan điểm này của Đảng thể hiện nhất quán chủ trương: Việt Nam quyết tâm chuyển đổi sang cơ chế thị trường, song không chấp nhận phát triển kinh tế thị trường bằng mọi giá, mà sự phát triển kinh tế đó phải hướng tới mục tiêu phục vụ con người, nâng cao chất lượng sống của con người cả về vật chất và tinh thần - tức là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, gắn kết chặt chẽ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
Điểm mới của Đại hội XII xét từ góc độ chính trị-xã hội là lần đầu tiên trong Văn kiện của Đảng, vấn đề phát triển xã hội, “Quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội” được tách riêng thành một mục. Điều này khẳng định nhận thức cũng như quyết tâm chính trị, hành động thực tiễn của Đảng ta nhằm hiện thực hóa mục tiêu bao quát của chủ nghĩa xã hội là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Việt Nam đang phấn đấu xây dựng.
Thứ năm, về mối quan hệ giữa Đảng với dân
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã thông qua Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay ”, trong đó tập trung trọng điểm vào chống tham nhũng, chống những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ đảng viên. tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đại hội lần này nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược có tâm và đủ tầm để lãnh đạo và triển khai thực hiện đường lối phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa nhanh và bền vững ở Việt Nam. Văn kiện Đại hội chỉ rõ: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.
Khẳng định chắc chắn chỉ có kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng đắn, là sự lựa chọn của lịch sử, sự lựa chọn của kết tinh truyền thống dân tộc, truyền thống và lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng được gắn chặt hòa quyện với nhau, là sự lựa chọn của nhân dân ta qua biết bao khó khăn, gian khổ hy sinh của kháng chiến chống Pháp, Mỹ, chống xâm lược.. đặc biệt sau 30 năm đổi mới và kết quả thành tựu mang lại, dù còn hạn chế, khuyết điểm... nhưng con đường đi đến độc lập - tư do hạnh phúc theo ý nguyện của Bác Hồ của Đảng ta, nhân dân ta đã sáng tỏ, rõ ràng, được thế giới tin cậy, phát triển hài hòa trong cộng đồng thế giới; nhân dân ta ngày càng văn minh, hạnh phúc, nền hòa bình của dân tộc được giữ vững các mục tiêu chính về "Dân giàu, nước mạnh  dân chủ, công bằng, văn minh" đã được chứng minh qua 30 năm đổi mới và được cả thế giói trân trọng, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao... đất nước, dân tộc, mỗi con người được sống trong hòa bình, đang sánh vai từng bước đưa nước ta thành nước phát triển, thân thiện, có trách nhiệm với thế giới muốn là bạn và làm bạn với mọi quốc gia, muốn trở thành đối tác thân thiện cùng xây dựng đất nước và thế giới tự do bình đẳng hạnh phúc, phồn vinh.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét