Thứ Ba, 27 tháng 8, 2013

Võ thuật và Khoa học



Từ xa xưa Võ thuật đã được cha ông ta rất coi trọng, xuất phát từ truyền thống thượng Võ lâu đời trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, Võ thuật đã góp phần làm rạng rỡ trang sử vẻ vang, anh hùng của dân tộc Việt Nam.
Trải qua nhiều thế kỷ, võ thuật luôn được quần chúng nhân dân, các võ sinh, võ sư trên khắp các miền của Tổ quốc luyện tập, phát triển và giữ gìn; đặc biệt võ thuật luôn được quan lại vua, chúa của các triều đại quan tâm ưa chuộng và sử dụng; nhiều triều đình phong kiến còn tổ chức các cuộc thi võ thuật để tuyển lựa những người giỏi võ và đức hào kiệt nhằm xây dựng quân đội và bảo vệ nền độc lập của quốc gia; thực tế lịch sử chứng minh Hưng đạo Đại Vương Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn là một trong những người văn võ song toàn đã góp công lớn ba lần đánh tan quân Nguyên vào thế kỷ 13, làm rạng rỡ lịch sử chống giặc ngoại xâm và trang sử vẻ vang, hào hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam.
Hiện nay, võ thuật được khôi phục, chú trọng phát triển. Có rất nhiều các liên đoàn Võ thuật đã được hình thành và phát triển như Việt võ đạo, Võ cổ truyền, Vịnh Xuân Quyền…ở Việt Nam. Thực tế, võ thuật đã mang lại cho thể thao việt nam rất nhiều huy chương khu vực và thế giới như: huy chương bạc Olimpic của VĐV Trần Hiếu Ngân trong môn Karate năm 2000… Trong nhiều năm qua ở các giải châu Á và thế giới đội tuyển Võ thuật của nước ta luôn nằm trong tốp dẫn đầu thế giới, nhất là các môn võ cổ truyền, Vovinam…đã làm rạng danh và khẳng định được vị thế của Võ thuật Việt nam trong khu vực và trên thế giới.
Võ thuật là môn thể thao, đồng thời là kỹ thuật đánh gần của  lực lượng Đặc công, Trinh sát trong quân đội. Ngày nay lực lượng vũ trang được trang bị ngày càng hiện đại, nhưng võ thuật vẫn có tác dụng không nhỏ trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, nhất là đối với luồn sâu, đánh hiểm của lực lượng đặc công, trinh sát thì võ thuật có vị trí ngày càng quan trọng.
Võ thuật có mối quan hệ rất biện chứng và gắn kết với tinh hoa của triết học, khoa học; bản thân việc rèn luyện Võ thuật để có được sức khoẻ dẻo dai, bền bỉ trước hết cũng cần có ý chí kiên gan, lòng dũng cảm, quyết tâm vượt qua khó khăn và tập luyện thường xuyên, liên tục theo một trình tư khoa học từ thấp đến cao…
Võ thuật và khoa học có sự gắn kết chặt chẽ, cân bằng thể hiện ngay từ các thế đứng - thế tấn - bài học đầu tiên trong võ thuật. Tấn là thế đứng của võ sinh và người học võ khi mới tập luyện, là bộ pháp quan trọng trong võ thuật, thế tấn chủ đạo thiên về bộ pháp của đôi chân, tấn có vững vàng thì công, thủ mới được; luyện thế tấn, thế đứng vững chắc chính là luyện tâm, tấn có vững thì tâm mới định, tâm có tập trung vào luyện tấn thì tấn mới chắc, khi luyện tấn cần phải biết tập trung vào đôi bàn chân, vào điều hoà nhịp thở để đứng được lâu, để làm nhẹ dần trọng lượng cơ thể và làm cho cơ thể linh hoạt hơn, có thể chuyển sang các thế công hoặc thủ khác nhanh nhẹn, kịp thời. Bài học về thế tấn thể hiện sự bắt đầu học võ một cách khoa học; học và rèn thế tấn thuần thục là yêu cầu đầu tiên để rèn luyện võ sinh về thể chất, tâm lý, ý chí để sẵn sàng chuyển sang các bài tập khác cao hơn. Bản thân khoa học ngay từ khi bắt đầu nghiên cứu tìm tòi sáng tạo cũng đòi hỏi cần có ý chí lòng dũng cảm, sự quyết tâm tìm, khám phá cái mới, sự lôgic và quy luật vận động, biến đổi của các sự vật hiện tượng.
Trung bình tấn là bộ tấn đầu tiên, trông có vẻ đơn giản, chỉ cần đứng dang hai chân ra, hai bàn chân gần như song song và doãi mũi chân về phía trước, hạ thấp trọng tâm cơ thể xuống cho hai ống chân dựng thẳng, hai bắp chân nằm ngang, khi đó góc tạo ở đầu gối là 900, hai bàn chân gần như song song và hướng mũi về phía trước. Tay lúc đó nắm lại thế thủ nắm ngửa đặt hai bên hông, ngực ưỡn, lưng thẳng, mắt nhìn thẳng, thở sâu từ từ. Nhiều võ sinh khi mới học rất chủ quan và coi thường động tác này. Nhưng chỉ mấy phút sau thì hai chân bắt đầu mỏi và rã rời dần, một số võ sinh khuỵu hẳn xuống. Trong thế trung bình tấn thể hiện chữ “trung bình” nghĩa là phép bình quân, là sự cân bằng, thế đứng trung bình đối xứng dọc thân người nên chia đều trọng lượng người ra hai chân, như vậy sẽ không thiên lệch về bên nào, nhờ thế mà đứng được lâu hơn. Sự đối xứng tự thân ấy cũng là một nguyên lí căn bản của khoa học và âm dương được cô đúc trong võ thuật. Nó thể hiện nguyên lí tự đối xứng của vũ trụ, có âm thời tất có dương và cân bằng âm dương… Võ sinh khi đứng trung bình tấn sẽ cảm thấy mình đang trấn giữ vũ trụ, như thu nhận khí huyết của cả đất trời, đồng thời khi đứng được lâu, vững chãi võ sinh sẽ rèn luyện được thể chất, ý chí, nghị lực… mặt khác đây là thế đầu tiên khi luyện võ, nên khi tập đúng sẽ giúp võ sinh vững vàng cả về tâm, trí, lực, thế của động tác trung bình tấn, tạo điều kiện cho võ sinh học rèn các thế sau tốt hơn.
 Hai bàn chân của thế trung bình gần như song song và doãi mũi chân về phía trước, nhờ hai bàn chân duỗi song song nên diện tích hai bàn chân tiếp xúc với đất là lớn nhất sẽ tạo được sự cân bằng theo nguyên lý của vật lí: mức vững vàng của vật phụ thuộc vào độ lớn diện tích mặt chân đế, mặt chân đế càng lớn thì độ vững vàng càng cao vì khi đó trọng tâm thân người rơi vào hai bàn chân là rộng và lớn nhất. Đồng thời, do người tập đã hạ thấp trọng tâm ở thế thấp hơn người đứng bình thường nên mức vững vàng được nâng lên và võ sinh có thể đứng được lâu hơn, vững chắc hơn.
Đinh tấn cũng là một bộ thế quan trọng sau thế trung bình, dù tiến tấn hay lùi tấn đều chia trọng lượng cơ thể ra như sau: chân trụ chính chịu bảy phần, chân phụ chịu ba phần. Ở thế tấn này chân trụ có bắp chân và đùi vuông góc với nhau, còn chân phụ sẽ duỗi thẳng. Mũi chân chính sẽ duỗi gần như thẳng ra phía trước còn bàn chân phụ sẽ đặt ngang, khi đó hướng của hai bàn chân sẽ vuông góc với nhau tạo ra một mặt chân đế hình tam giác. Đây là nguyên lí đồng phẳng trong hình học “có ít nhất bốn điểm không đồng phẳng”, trong dân gian ta có câu “vững như kiềng ba chân”. Với ba điểm thì sẽ tạo ra một mặt phẳng vững vàng còn bốn điểm thì dễ xảy ra sự gập ghềnh khó vững. Đứng đinh tấn trên ba điểm đó cộng với chiều rộng của hai chân phù hợp từ 1m đến 1,2m, cùng với trọng tâm thân người hạ thấp và hai chân chịu lực tương xứng với thế của từng chân càng tạo ra mặt phẳng vững vàng, tạo nên thế đinh tấn vững.
Trảo mã tấn là thế đứng độc đáo trong võ thuật cổ truyền và thường được sử dụng trong song đấu. Thế này đứng giống chân ngựa, chân trụ phía sau chịu hầu như hoàn toàn trọng lượng thân, chân phụ phía trước chỉ dùng để tạo thế và để nhá, dử đòn. Thế này tạo ra sự linh động khi né đòn, ra đòn. Đối thủ khi phá chân trảo mã thì chân trụ vẫn còn nên không thể ngã được. Trường hợp lợi thế thì chân trước trảo mã sẽ ra đòn dễ dàng. Nguyên lí khoa học ở đây là phép bão hoà trong vật lí và tính chất cộng thêm trong toán học; triết học thì phát biểu rằng mọi sự vốn đã đầy đủ nhưng thêm vào cũng không phải là thừa. Tấn trảo mã chính là như vậy: trọng tâm hầu như đã dồn cả vào chân trụ nhưng cộng thêm chân trảo mã vào cùng với thân người hơi cúi khom mình, đây là tư thế khá hoàn hảo vì toàn thân được kết nối chắc chắn, giữ được thăng bằng có thể chuyển sang tấn công, phản công nhanh mà không cần cử động mào đầu, lấy đà.
Bàn về thế công, thế thủ. Nếu như tấn thiên về bộ pháp của chân, thì phép công thủ là bộ pháp của tay. Trong khi tập luyện cũng như song đấu, các võ sinh luôn giữ thế tay mở hoặc nắm đấm gọi là thế thủ. Ở thế thủ, tay đặt bên hông, nắm đấm ngửa lên trời như để thu hút tinh lực vũ trụ. Khi tấn công thì tay đấm ra với tốc độ nhanh, đồng thời vừa xoay cổ tay sao cho khi nắm đấm đến đối thủ thì vừa úp lại, nghĩa là trong quá trình di chuyển nắm tay đã thực hiện quay từ dưới lên trên 1800. Việc ra đòn như thế sẽ tạo ra một quán tính lớn làm tăng cường lực, sức mạnh, tốc độ của cú đấm. Đồng thời khi đấm xoay cổ tay cũng vừa tạo ra lực gạt, đỡ các đòn của đối phương về phía mình, vừa tạo ra nét nhanh nhẹn, kịp thời, mềm mại, uyển chuyển trong thế công của người tập võ. Giống như mũi khoan xoay sẽ tạo ra lực đâm xuyên lớn và bảo vệ được mũi khoan bền hơn trong khi sử dụng.
Bàn về các đòn cước. Khi biểu diễn quyền thuật hoặc song đấu thì đòn chân được chú ý nhiều nhất, nhìn vào khả năng di chuyển của môn sinh có thể đánh giá được công phu tập luyện, khi ra trận song đấu thì đôi chân thực sự là công cụ hiệu nghiệm với những đòn cước.
Bàng long cước đá tạt là đòn phổ biến hơn cả. Khi đá vòng chân từ phía ngoài vào đến giữa chừng thì tăng tốc cho riêng phần chân ra đòn vào đối thủ. Cách ra đòn như vậy vừa tăng lực cho cú đá lại vừa giúp cho người tập dễ dàng định thân vững và thế tấn chắc chắn sau khi đá. Còn đá thẳng thì ta phải nâng đùi tung chân để tạo lực quán tính của chân lớn và tạo được cú đá nhanh.
Đảo sơn cước là cú đá khó thực hiện nhất. Đòn này chỉ dành cho những người đã có thời gian luyện tập vì độ tinh xảo rất cao. Đòn này còn có tên gọi khác là đá bay nghịch. Khi đá đòn này thì người võ sinh quả là một nhà vật lí vì họ đã vô tình biến mình thành một động cơ biết bay. Chỉ bằng cú nhún nhẹ và cước chân mà tạo nên một lực quay lớn làm cho toàn thân “cất cánh” trên không trung. Ta biết rằng khi một vật bay thì sẽ có hiện tượng giảm trọng lượng, người võ sinh trong trường hợp này nhờ cú đá nghịch mà làm giảm đi nhiều khối lượng của mình nên mới có thể bay bổng lên được. Tuy nhiên, cú đá bay dù thuận hay nghịch theo nhiều nhà phê bình và võ sư nhận xét cốt phô trương, nặng phần trình diễn, mỗi khi bay lên đá, võ sĩ thường tự làm mất thế trụ của mình, sẽ là yếu huyệt cho địch thủ phản công, hay nói một cách khác, cú đá bay chỉ làm cho hao tổn năng lượng một cách không cần thiết, nhất là các võ sinh tập luyện không đến nơi đến chốn.
sư Hee ll Cho, một cao thủ Taekwondo nổi tiếng thế giới, người có những cú đá bay kiệt xuất; ông cho rằng: cú đá bay không hề là phô trương, mà thực sự nó là một độc chiêu nếu người sử dụng tập luyện căn cơ, khổ luyện, khoa học. Ông nói thêm: Muốn đánh giá về hiệu quả thực sự của cú đá bay thì phải dựa trên những võ sĩ đã qua sự khổ luyện đạt mức thành công nhất định. Bởi vì tuyệt kỹ võ công không phải dành cho mọi người, những gì người này có được không hẳn có ở người kia. Võ sư Hee giải thích thêm:  Dù có bằng chứng về sự giống nhau giữa các chiêu thức của cú đá bay, nhưng tùy theo trình độ sẽ có hiệu quả khác nhau; hiệu quả thật sự của nó là vũ khí phản công chứ không phải là đòn tấn công; nhiều người sử dụng cú đá bay trong tấn công đã chước lấy thất bại. Cú đá bay chỉ hiệu quả và phát huy hết uy lực của nó khi nào bạn dùng nó như một đòn phản công, mới có tính bất ngờ thì địch thủ mới không kịp trở tay. Nếu dùng nó như một đòn tấn công thì bạn sẽ nhận sự phản công bằng những cú quét chân, kể cả đòn cầm nã, bởi khi nhảy lên đá qua tư thế tấn công thì bạn sẽ bị hở, bị mất thế, mất trụ dễ rước lấy thảm bại. Hiệu quả nhất là khi địch thủ tấn công ta với khí thế hung hăng, điên cuồng và dùng những cú đấm dài. Đó là lúc ta tung cú đá bay đắc dụng nhất. Cần tạo được sự di chuyển kịp thời và cú phản đòn chớp nhoáng, chú ý đừng quá ham biểu diễn khi tung thân người quá cao rồi mới ra đòn, bởi làm như vậy mặc nhiên tạo cho mình sự mất thế trụ. Tốt hơn hết là lúc vừa tung cú đá ra, bạn đồng thời lộn người xoay 1800 độ và ra đòn chớp nhoáng ở tầm ngang thắt lưng trở lên tới mặt đối phương. Dùng lực dồn xuống gót chân trụ, khi bạn trụ được vũng vàng thì uy lực phát ra ở chân còn lại mới tăng lên, mới có hiệu quả thật sự ở chân đá cao sẽ phát huy được uy lực của nó. Cú đá bay này vừa bất ngờ lại vừa chắc chắn, nhờ vào yếu tố chớp nhoáng, kết hợp tung ra những cú đá nhử, đá giả nhằm làm cho địch thủ chủ quan, trước khi tung ra cú đá bay quyết định.
Võ thuật là kỹ thuật, phương thức dùng sức mạnh nội lực, ngoại lực để chiến thắng đối phương. Võ thuật được sản sinh ra trong đấu tranh giữa con người với thiên nhiên, con người với kẻ thù và con người với bệnh tật, võ thuật hướng đến mục tiêu đem lại cho con người sự chiến thắng trong các cuộc chiến, rèn luyện sức khỏe dẻo dai, bền bỉ, ý chí lòng dũng cảm, sự tự tin vào cuộc sống... Trải theo thời gian, võ thuật hiện đại không còn nhấn mạnh vai trò chiến đấu và chiến thắng bằng mọi giá như trước, mà đã chú trọng hơn nhiều đến các mục tiêu khác như để rèn luyện sức khỏe, thực thi quyền tự vệ chính đáng của mỗi con người.
Theo đó võ thuật đề cao phương pháp, cách thức, sự khéo léo, kỹ thuật, sức chịu đựng… nghĩa là sự phát huy toàn diện sức mạnh của con người để chiến thắng địch thủ mà không chỉ là những đối thủ trực diện trên sàn đấu. Bên cạnh đó võ thuật, vừa mang ý nghĩa nghề nghiệp, khẳng định võ cũng là một nghề trong xã hội, nghề võ. Cũng không thể không nhắc đến một khái niệm thường được các võ đường và các võ sư đề cao, thuật ngữ "Võ đạo", nhấn mạnh tính nhân văn, văn hóa trong võ thuật, khẳng định sự tột đỉnh của võ thuật triết học, là văn, là nhân, là yêu thương con người, võ học là sự gắn kết chặt chẽ với cội nguồn triết học, hạt nhân đạo đức và chiều sâu tôn giáo, chiều sâu của sự rèn luyện, khổ luyện trong võ thuật chính là phát huy hết khả năng của con người vào chinh phục thiên nhiên, sống hoà đồng nhân ái, yêu thương con người…, đồng thời đưa sự khốc liệt, đấu tranh có tính bản chất của võ, một công cụ để thi thố, tàn sát, tranh giành thắng thua xuống hàng thứ yếu.
Trong đời sống xã hội còn tồn tại khái niệm võ học. Võ học là khái niệm được dùng rất hạn chế trong đời sống võ thuật tại Việt Nam hiện nay. Võ học chưa được xem là một ngành học chính thống trong ngành giáo dục & đào tạo. Võ học cần có sự nghiên cứu, phân tích, hệ thống hóa... tất cả mọi mặt của đời sống võ thuật dưới ánh sáng của các chuyên ngành khoa học tự nhiên & xã hội khác như vật lý học, giải phẫu học, sinh lý, sinh hóa, sinh cơ, tâm lý học, y học TDTT.... Hầu hết các bài viết hoặc sách, báo về võ thuật hiện nay tại Việt Nam của các võ sư hoặc huấn luyện viên, các nhà nghiên cứu… đều ít khi đề cập đến thành tựu nghiên cứu của lĩnh vực này. Do đó, đời sống võ thuật Việt Nam còn khá xa lạ với các thuật ngữ, khái niệm hoặc công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về võ thuật, có lẽ có nguyên nhân sâu xa từ trình độ nhận thức, lý luận và nguyên cứu của giới võ thuật hiện nay.
Võ thuật là một môn thể thao mang tính khoa học, có sự gắn kết chặt chẽ với sự vận động phát triển của xã hội loài người, với triết học. Võ thuật và Khoa học đòi hỏi phải luôn hướng đến việc tìm kiếm và khám phá cái mới với sự liên kết chặt chẽ, lôgic và manh tính ứng dụng, hiệu quả cao, tìm ra chân lý, cái đúng … Sự gắn kết của võ thuật và khoa học mang tính lôgic ngay trong quá trình phát triển và khám phá nội lực, sức mạnh và tiềm năng của con người trong việc chinh phục và cải tạo thiên nhiên. Sự gắn kết đó không chỉ yêu cầu người tập luyện võ thuật trước hết phải học lễ, học văn, học đạo, học võ để bảo vệ mọi người, học làm người… đồng thời phải luyện tập thường xuyên, kiên trì bền bỉ đúng cách, theo trình tự lôgic khoa học từ thấp đến cao, tránh nôn nóng, phải rèn luyện ý chí, nghị lực và tinh thần khắc phục khó khăn khi tập luyện; thực hiện tốt quan điểm học Võ là học đến đâu nắm chắc và thành thạo đến đó, nắm chắc kỹ thuật cơ bản và thuần thục đến đó, tinh thông đến đó; học ít tinh thông hơn học nhiều mà không thuần thục, biết một sâu sắc, tinh sảo, điêu luyện còn hơn biết mười mà không thành thạo.
Tài liệu tham khảo
1. Học thuyết huấn luyện, Nxb TDTT, Hà Nội, 1983.
2. Lý luận và phư­ơng pháp Giáo dục thể chất, Nxb TDTT, 1998.
3. Kỹ thuật đánh gần, Cục Quân huấn - BTTM, Nxb QĐND, 2003.
4. Điều lệ huấn luyện thể lực, Cục Quân huấn BTTM, 2004.
5.Tập Bài giảng Võ thuật - HVCT - QS, 2007.
6. Võ thuật - Bách khoa toàn thư - Nguồn Internet.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét